Chia sẻ:

Thông lệ của người Việt, trong khi thờ cúng, ngoài mâm bồng, câu khấn còn có dâng lên bề trên các tờ sớ. Tờ sớ có nhiều loại và trong đó nội dung cũng khá phong phú và đa dạng. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu sớ nghĩa là gì?

1.Định nghĩa sớ là gì?

Sớ cúng gia tiên
Sớ cúng gia tiên

Sớ là một loại văn bản cổ dùng để trình bày ước vọng của người dưới dâng lên bề trên mọng được y chuẩn. Vì là một loại văn bản hành chính nên sớ cũng có những quy định chặt chẽ.

2.Phạm vi ứng dụng của tờ sớ

Tìm hiểu sớ cúng là gì?

Ngày xưa tờ sớ vô cùng quan trọng. Dâng vua, tâu vua cũng dùng sớ, nghĩa là sớ là hình thức biểu đạt nguyện vọng của con người khá thông dụng. Tuy nhiên ngày nay, các hình thức quan cách không còn nữa. Thay vào đó tờ sớ chỉ được dùng chủ yếu trong cúng lễ, bái, trong các nghi lễ cúng tế của người dân Việt Nam. Đặc biệt tờ sớ được sử dụng nhiều ở đình, đền, chùa, nhà thờ họ.  Sớ thay cho lời khấn khi đi lễ, nên trên mâm lễ vật có tờ sớ thêm phần tố hảo, viên mãn.

*** Hướng dẫn mẫu viết sớ cúng gia tiên, bà tổ cô nhà thờ họ chuẩn mực

3.Cấu trúc của tờ sớ như thế nào?

Khi viết bất kì một văn bản nào đều cần có mẫu chung của thể loại văn bản đó. Tờ sớ cũng như vậy, nó có cấu trúc và kí tự chung biểu đạt mong muốn nguyện vọng và văn phong theo thể thức của riêng nó.

Phần mở đầu Sau hai chữ “phục dĩ”, đa số các tờ sớ có phần phi lộ, thông thường là một câu văn biền ngẫu viết theo thể phú, nội dung có liên quan tới lá sớ. Ví dụ lá sớ thông dụng mà ta quen gọi là “sớ phúc thọ”
Thì mở đầu bằng câu “Phúc Thọ Khang Ninh nãi nhân tâm chi kỳ nguyện…”
Phần địa chỉ Phần này tiếp theo lời phi lộ, được mở đầu bằng hai chữ “viên hữu” tiếp theo là “việt nam quốc, tỉnh, huyện, xã thôn. Tiếp theo là hai chữ “y vu” hoặc “nghệ vu” ở cuối hang địa chỉ. Đầu cột tiếp theo là ghi nơi tiến sớ, ví dụ: “….linh từ”.
Phần lí do Phần này được mở đầu bằng hai chữ “thượng phụng” nằm dưới tên đền, chùa của phần 2. Đầu cột tiếp theo đa phần là mấy chữ “Phật, Thánh hiến cúng …..thiên tiến lễ……” . Kết thúc là chữ “sự”. Chú ý trong sớ, tất cả các chữ Phật, Thánh, hoặc hồng danh của các ngài đều phải viết tôn cao thêm bằng 1 chữ.
Phần ghi họ tên người dâng sớ Mở đầu bằng câu: “kim thần tín chủ (hoặc đệ tử)” tiếp theo viết họ tên người dâng sớ, có vài loại sớ thì ghi thêm cả tuổi, bản mệnh, sao gì, cung bát quái nào… (ví dụ sớ cúng sao đầu năm). Nếu sớ ghi nhiều người, hoặc thay mặt cho cả gia đình thì bao giờ cũng có chữ “đẳng”. ví dụ “hiệp đồng toàn gia quyến đẳng”. Kết thúc phần này là mấy chữ: “tức nhật mạo (hoặc ngương) can”… Mấy chữ này, cùng hai chữ “y vu” ở trên nhà in sớ không in mà người viết phải tự điền vào. Lý do là mấy chứ đó có thể thay đổi cho phù hợp hơn hoặc văn vẻ hơn theo sở học của người viết sớ.
Phần mở rộng Tán thán Ở phần này là những câu văn giải thích rộng hơn lý do dâng sớ. Kết thúc phần này là câu “do thị kim nguyệt cát nhật, sở hữu sớ văn kiền thân thượng tấu”
Phần thỉnh Phật Thánh Phần này mở đầu bằng 2 chữ “cung duy” tiếp theo là Hồng danh của các ngài. Dưới mỗi hồng danh là các chữ “tòa hạ” dành cho Phật, “vị tiền” dành cho Thánh, Thần cùng các bộ hạ các ngài. Đôi khi với các vị Tiên thì dung “cung khuyết hạ”
Phần thỉnh cầu Phần này được mở đầu bằng hai chữ “phục nguyện”
Tiếp theo là đoạn văn biền ngẫu (thường là rất hay) nói về sự mong mỏi được các bề trên ban ân huệ cho bản thân và gia đình. Kết thúc bằng câu “đãn thần hạ tình vô nhậm, kích thiết bình doanh chi chí, cẩn sớ.
Kết luận Ghi năm tháng ngay (có khi cả giờ). Kết thúc bằng mấy chữ “….thần khấu thủ thượng sớ”.

 

Lưu ý
  • Phần giấy trắng (tức là lưu không- ngày nay gọi là canh lề) đầu tờ sớ rất hẹp (cỡ vừa 1 ngón tay), cuối tờ sớ bằng “nhất chưởng” tức khoảng rộng tương đương 4 ngón tay, như thế gọi là “ tiền lưu nhất chưởng, hậu yêu không đa”.
  • Lưu không Trên đầu tờ sớ rất rộng, chân tờ sớ thì rất hẹp chỉ vừa cho con kiến chạy – “thượng trừ bát phân, hạ thông nghĩ tẩu”.
  • Các cột chữ rất thưa nhưng khoảng cách chữ lại rất mau – “sơ hàng mật tự”.
  • Một chữ không bao giờ được đứng riêng một cột – “nhất tự bất khả nhất hàng”.
  • Khi viết họ tên người phải đứng cùng 1 cột – “bất đắc phân chiết tính danh”

(ST)

Như vậy bài viết trên cót thể giúp bạn đọc hiểu hơn về quy cách của một tờ sớ cụ thể như thế nào. Tuy nhiên sớ thì có nhiều loại, mỗi loại có đặc trưng riêng do vậy để viết được sớ không phỉa là điều dễ dàng. Do vậy khi viết sớ thường mọi người thường nhờ thầy đồ hoặc thầy cúng  viết hộ để đảm bảo chính xác và chuẩn mực nhất có thể.